Chất thải rắn sinh học được hình thành như thế nào? Quá trình phát triển và cách ứng dụng công nghệ để xử lý triệt để CTR sinh học.
Trong xử lý nước thải, vi khuẩn và các VSV phân hủy thành các dạng chất hữu cơ đơn giản và ổn định hơn. Chất vô cơ lắng thành bùn. Bùn thải chứa nhiều kim loại nặng, chất hữu cơ khó phân hủy, hóa chất độc hại,… Phần bùn này được thải ra khỏi hệ thống và đem đi xử lý định kỳ.
Còn chất rắn sinh học ở dạng lỏng, nó được khử nước và biến thành hỗn hợp chỉ chứa khoảng 20 – 25% chất rắn. Giống như XLNT, vậy chất rắn sinh học được xử lý và ứng dụng như thế nào kể từ khi con người bắt đầu xử lý chất thải?
Lịch sử hình thành chất thải rắn sinh học
Chỉ khi các cộng đồng dân cư được hình thành thì người ta mới bắt đầu quan tâm đến việc xử lý chất thải. Lúc đầu, chất thải thấp nên có thể thải ra đất tăng độ phì nhiêu. Lâu dần, lượng chất thải tăng lên, vùng đất không còn khả năng xử lý hết chất thải vì thế mà nó được đổ trực tiếp xuống sông suối.
Ở Trung Quốc
Sử dụng chất thải để làm tăng độ phì nhiêu của đất bằng cách cung cấp chất dinh dưỡng. Chất thải từ các trang trại vận chuyển đến khu vực sản xuất nông nghiệp, trồng trọt. Xã hội Trung Quốc đã biết phát triển hệ thống sinh thái tái chế chất thải thân thiện với môi trường. Nhiều khu vực phát triển hệ thống cống rãnh dẫn chất thải vừa giúp BVMT vừa cải thiện sức khỏe con người.
Ở Tây Âu và Bắc Mỹ
Cách đây khoảng 150 năm, người ta biết trồng trọt quy mô lớn gần các đô thị lớn. Nguồn nước thải được xả ra mà không qua bất kỳ giai đoạn xử lý nào và nguồn tiếp nhận bị ô nhiễm. Ở các thành phố châu Âu bắt đầu vận hành hệ thống xlnt hoàn chỉnh. Bên cạnh đó, các trang trại giảm bớt ô nhiễm nguồn tiếp nhận nhưng lại tạo ra hàng loạt vấn đề vệ sinh môi trường khác. Sự quá tải gây tắc nghẽn hệ thống đất, úng nước, mùi hôi và ô nhiễm.
Ở Hoa Kỳ
Có hàng chục đơn vị XLNT vào TK 20, tuy nhiên mức độ thách thức đối với việc xử lý nước thải đô thị và quản lý chất thải rắn sinh học còn thấp. Phần lớn HTXLNT phục vụ nước thải đô thị và phần còn lại phục vụ cho hệ thống tự hoại hộ gia đình cá nhân.
Các nhà máy XLNT ở đô thị tại Hoa Kỳ năm 1997 sản xuất hơn 7,7 triệu tấn chất rắn sinh học khô. Cho đến năm 2002, khoảng 60% tổng chất rắn sinh học được bón vào đất như chất cải tạo đất và phân bón cho cây trồng. Chất rắn sinh học đáp ứng các tiêu chí xử lý mầm bệnh và ô nhiễm. Các quy trình xử lý nước thải làm giảm tác nhân gây bệnh, kim loại nặng và không ảnh hưởng đến các yếu tố vi lượng trong chất rắn sinh học.
Chất thải rắn sinh học phát triển như thế nào?
Trước khi lĩnh vực XLNT phát triển, nước thải chưa được xử lý và chất rắn sinh học không tồn tại. Chất thải rắn sinh học là sản phẩm cuối cùng và chứa nhiều tạp chất ô nhiễm được loại bỏ khỏi nước thải. Chất rắn sinh học là dạng huyền phù cô đặc của chất rắn, chủ yếu chứa nhiều chất hữu cơ và chất dinh dưỡng.
Và sử dụng chất rắn sinh học trong nông nghiệp ngày càng trở nên phổ biến. So với việc sử dụng phân gia súc và nước thải thì chất rắn sinh học chính là sự lựa chọn tốt nhất. Chất rắn sinh học được sử dụng làm phân bón vào năm 1907 ở Ohio.
Trong hàng chục năm qua, nhiều nghiên cứu tập trung phân tích và đánh giá các thành phần có khả năng gây bệnh và độc hại trong chất rắn sinh học. Nhờ vậy mà nhiều hướng dẫn về tải chất ô nhiễm ra đời.
Kể từ cuối năm 1970, nhiều chương trình kiểm soát nguồn thải và tiền xử lý nước thải đô thị và công nghiệp giúp hạn chế việc thải nhiều thành phần độc hại vào nguồn tiếp nhận. Nhờ những chương trình này mà giúp giảm đáng kể các nguyên tố vi lượng trong nước thải và chất rắn sinh học.